Chiến dịch Điện Biên Phủ: mốc son thời đại
- Bối cảnh lịch sử
Sau 8 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam (1945 – 1953), quân Pháp lâm vào thế bị động trên chiến trường. Nước Pháp khủng hoảng toàn diện, phải nhờ sự viện trợ của Mĩ. Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, quân dân ta đã giành thế chủ động trên các chiến trường, đánh tan quân Pháp ở chiến dịch Việt Bắc (1947), chiến dịch Biên Giới (1950), chiến dịch Tây Bắc (1952)…
Để thoát khỏi thế khó khăn ấy, Pháp đề ra kế hoạch Navarre (1953 – 1954) với mục tiêu: “bình định” vùng Nam Bộ và Nam Trung Bộ, sau đó đem quân tiến ra Bắc Bộ nhằm “kết thúc chiến tranh trong danh dự” trong vòng 18 tháng. Để đối phó với giặc, Đảng và Chính phủ đề ra chiến lược Đông – Xuân (1953 – 1954). Sau hơn 2 tháng thực hiện chiến lược, quân ta đánh tan và buộc Pháp phân tán lực lượng vào các địa điểm: Hà Nội, Điện Biên Phủ, Luông Prabang, Seno và Pleiku; đồng thời cũng khiến Pháp tập trung lực lượng mạnh nhất ở một địa điểm mà chúng cho rằng sẽ kết thúc luôn cuộc chiến: Điện Biên Phủ.
- Chiến dịch Điện Biên Phủ
Pháp chọn Điện Biên Phủ vì nhiều lý do. Điện Biên Phủ (nghĩa là “vùng biên ải vững chãi”), địa hình chia cắt mạnh tạo nên sự hiểm trở, cách xa Hà Nội (theo đường bộ) là hơn 400 km. Điện Biên Phủ có nguồn tài nguyên phong phú, khí hậu thuận lợi. Điện Biên Phủ có lòng chảo Mường Thanh rộng lớn, sản lượng lúa gạo thu hoạch đủ nuôi sống 20.000 – 25.000 người trong nhiều tháng. Từ Điện Biên Phủ, Pháp có thể đánh chiếm được Lào và giành lại các vùng đã mất.
Đầu năm 1954, Pháp thực hiện “cuộc hành quân Castor” tập trung lực lượng gồm trên 20 tiểu đoàn, tổng quân số 16.200 người lên Điện Biên Phủ. Thực dân Pháp xây dựng Điện Biên Phủ một tập đoàn cứ điểm lớn với 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu yểm hộ vào nhau, chỉ huy chung là tướng C. de Castries. Theo đánh giá của các tướng Pháp và Mĩ, Điện Biên Phủ là một “pháo đài không thể xâm phạm”.
Nhận rõ thủ đoạn của thực dân Pháp, tháng 12/1953, Bộ Chính trị đã họp và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ (mang mật danh là “chiến dịch Trần Đình”), với mục tiêu là tiêu diệt quân Pháp, giải phóng Tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm chỉ huy chính của chiến dịch. Theo lời dặn dò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tướng Giáp quyết định phương án tác chiến là “đánh chắc tiến chắc” thay cho phương án trước đó mà ông nhận thấy không hiệu quả. Lực lượng tham gia chiến dịch là 40.000 cán bộ và chiến sĩ, cùng hơn 260.000 dân công và thanh niên xung phong đảm bảo hậu cần phục vụ chiến dịch theo khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
Chiều ngày 13/3/1954, 40 khẩu pháo của ta đồng loạt nhả đạn vào Him Lam (thuộc phân khu Bắc). Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Sau khi hạ Him Lam, bộ đội ta tấn công đồi Độc Lập, bức hàng Bản Kéo. Đến ngày 17/3, kết thúc đợt 1 của chiến dịch, quân ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 quân tinh nhuệ Pháp.
Ngày 30/3/1954, quân ta bắt đầu đợt 2 của chiến dịch, mục tiêu là tiến công phía đông phân khu Trung tâm, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Trong đợt này, quân ta tiến đánh mạnh vào các cao điểm phía đông (C1, C2, D1, E, A1), cứ điểm Huguette 1. Tại đồi A1, trận đánh diễn ra ở thế giằng co của hai bên. Kết quả, ta diệt được 5.000 tên Pháp, chia cắt và khống chế các khu vực còn lại của cứ điểm Điện Biên Phủ.
Từ ngày 1/5/1954, quân ta bắt đầu đợt 3 của chiến dịch, mục tiêu là tấn công khu trung tâm Mường Thanh và phân khu Nam. Chiều ngày 6/5/1954, pháo binh bắn mạnh vào các cứ điểm, hỗ trợ bộ binh tiến công khu trung tâm. Lúc 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, tướng De Castries cùng toàn bộ Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt sống. Cũng trong ngày 7/5, quân ta đánh luôn phân khu Nam, diệt và bắt hết các lính Pháp chạy trốn sang Lào.
Sau 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, diệt và bắt sống toàn bộ 16.200 tên Pháp (trên 2.000 tên tử trận), 1.706 tướng Pháp bị diệt và bị bắt sống. Thiệt hại về phía Quân đội Nhân dân Việt Nam sau chiến dịch là hơn 14.000 người. Thắng lợi ở Điện Biên Phủ đã buộc Pháp ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở hội nghị Genève (tháng 7/1954). Chiến thắng Điện Biên Phủ cổ vũ cho phong trào giành độc lập khỏi thực dân của các nước châu Phi (Algeria, Maroc, Madagascar…)
* CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN: https://youtu.be/iWSV3qFFoMY?si=SDq_dDNK4d13u54R
* HÒ KÉO PHÁO: https://youtu.be/VedbbT6QaH0?si=dlyrJ8AUBFYIJ69w
* CHÚNG EM TRỞ VỀ ĐIỆN BIÊN https://youtu.be/iswrop05pX0?feature=shared